• Yêu Thương và Phục Vụ

Tông huấn “Dilexi te”: Đức tin không thể tách rời khỏi tình yêu dành cho người nghèo

  • Thứ sáu, 14:29 Ngày 10/10/2025
  • Tác giả: Salvatore Cernuzio

    Vatican News -- Đáp lại ước nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô “mong rằng mọi Kitô hữu đều nhận ra mối liên hệ mật thiết giữa tình yêu của Đức Kitô và lời mời gọi chăm sóc người nghèo”, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã ban hành Tông huấn đầu tiên của ngài, mang tựa đề “Dilexi te” (Ta đã yêu con), như một lời mời gọi các môn đệ của Đức Kitô “nhận ra Người nơi những người nghèo khổ và đau yếu.”

    Tông huấn đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cho thấy tình yêu của Đức Kitô được nhập thể qua tình yêu dành cho người nghèo, qua việc chăm sóc người đau yếu, chống lại chế độ nô lệ, bảo vệ phụ nữ bị loại trừ và bạo hành, mang lại cơ hội giáo dục cho mọi người, đồng hành với người di dân, thực thi bác ái, cổ võ bình đẳng và nhiều khía cạnh khác.

    Tông huấn“Dilexi te” (“Ta đã yêu con”, trích Khải Huyền 3,9) được triển khai qua 121 đoạn được đánh số, phân bố trong 5 chương, bắt nguồn trực tiếp từ Tin Mừng của Con Thiên Chúa, Đấng khi nhập thể bước vào thế gian đã trở nên nghèo vì chúng ta. Đồng thời, Tông huấn này tái khẳng định học thuyết xã hội của Hội Thánh, đặc biệt trong 150 năm qua, như “một kho tàng phong phú các giáo huấn quý giá” liên quan đến người nghèo.

    Tiếp bước các vị tiền nhiệm

    Với văn kiện này, được ký ngày 4 tháng 10 - lễ kính Thánh Phanxicô Assisi - Đức Giáo Hoàng Lêô xác định rõ vị trí của mình trong hành trình mà các vị tiền nhiệm đã mở ra, trong đó có Thánh Gioan XXIII, người đã kêu gọi trong văn kiện “Mater et Magistra”: các quốc gia giàu có đừng thờ ơ trước những dân tộc đang bị áp bức bởi nạn đói và cảnh nghèo cùng cực (số 83).

    Thánh Phaolô VI đã góp tiếng nói của mình qua thông điệp “Populorum progressio” và qua việc ngài xuất hiện tại Liên Hiệp Quốc như “một người biện hộ cho người nghèo”; tương tự, Thánh Gioan Phaolô II đã củng cố nền tảng tín lý của “sự ưu tiên chọn lựa người nghèo” trong giáo huấn của Hội Thánh.

    Gần đây hơn, Đức Bênêđictô XVI, trong thông điệp “Caritas in veritate”, đã đưa ra cách tiếp cận mang tính chính trị rõ nét hơn về các khủng hoảng của Thiên niên kỷ thứ ba; trong khi Đức Phanxicô đặt việc chăm sóc người nghèo và hiệp thông với họ như một trong những chủ đề trọng tâm của triều đại giáo hoàng của ngài.

    Khởi đầu bởi Đức Phanxicô, hoàn tất bởi Đức Giáo Hoàng Lêô

    Tương tự như Đức Phanxicô, người đã hoàn tất công trình của Đức Bênêđictô XVI trong thông điệp “Lumen Fidei”, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã tiếp nhận bản văn của vị tiền nhiệm gần nhất để thực hiện văn kiện huấn quyền quan trọng đầu tiên của ngài.

    “Dilexi te” được xây dựng trên nền tảng giáo huấn của thông điệp cuối cùng do Đức Phanxicô ban hành - là thông điệp “Dilexit nos” về Thánh Tâm Chúa Giêsu - nhằm nhấn mạnh đến “mối liên hệ mật thiết” giữa tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu dành cho người nghèo.

    “Nơi người nghèo,” Đức Giáo Hoàng Lêô viết, “Thiên Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta” (số 5).

    Đức Thánh Cha cũng nhắc lại chủ đề về “sự ưu tiên chọn lựa người nghèo” của Hội Thánh, một thuật ngữ phát sinh trong bối cảnh châu Mỹ Latinh (số 16).

    Đức Giáo Hoàng Lêô giải thích rằng “sự ‘ưu tiên’ này không bao hàm tính loại trừ hay phân biệt đối với các nhóm khác”, nhưng nhằm nhấn mạnh “hành động của Thiên Chúa, được thúc đẩy bởi lòng xót thương trước cảnh nghèo và yếu đuối của toàn thể nhân loại” (số 16).

    “Trên những khuôn mặt bị thương tích của người nghèo, chúng ta nhận ra nỗi đau khổ của những người vô tội, và vì thế, là chính nỗi đau khổ của Đức Kitô” (số 9).

    Những ‘khuôn mặt’ của sự nghèo đói

    Tông huấn của Đức Giáo Hoàng Lêô đưa ra nhiều điểm suy tư và lời kêu gọi hành động khi phân tích những “khuôn mặt khác nhau của người nghèo và của sự nghèo đói”, trong đó có “sự nghèo túng của những người thiếu thốn các phương tiện vật chất để sinh tồn” hoặc “bị gạt ra bên lề xã hội và không có điều kiện để thể hiện phẩm giá và khả năng của mình” (9).

    Đức Giáo Hoàng Lêô cũng lưu ý đến sự hiện diện của nghèo đói luân lý, tinh thần và văn hóa; đó là sự nghèo của “những người không có quyền, không có chỗ đứng, không có tự do” (9).

    Bất bình đẳng và những hình thức nghèo mới

    Đối diện với thực tế này, Đức Giáo Hoàng Lêô nói rằng dù “cam kết đối với người nghèo và việc loại bỏ các nguyên nhân xã hội và cơ cấu của nghèo đói đã được chú trọng hơn trong những thập niên gần đây… nhưng vẫn còn chưa đủ” (10).

    Ngài cảnh báo về sự xuất hiện của những hình thức nghèo mới, đôi khi “tinh vi và nguy hiểm hơn”, đồng thời lên án những “quy luật” kinh tế chỉ làm gia tăng tài sản cho một số ít người nhưng lại khiến bất bình đẳng ngày càng trầm trọng hơn (10, 13).

    “Tôi chỉ có thể một lần nữa khẳng định rằng bất bình đẳng ‘là cội rễ của các tệ nạn xã hội’” (94).

    Chế độ độc tài của một nền kinh tế giết chết con người

    “Lời khẳng định rằng thế giới hiện đại đã giảm được nghèo đói là dựa trên việc đo lường theo các tiêu chí của quá khứ, vốn không còn phù hợp với thực tế ngày nay,” Đức Giáo Hoàng Lêô viết. Từ quan điểm này, ngài hoan nghênh việc “Liên Hiệp Quốc đã đặt mục tiêu xóa bỏ nghèo đói làm một trong những Mục tiêu Thiên niên kỷ” (13, 10).

    Tuy nhiên, ngài nói, vẫn còn một chặng đường dài phía trước, nhất là trong thời đại mà “chế độ độc tài của một nền kinh tế giết chết con người” vẫn đang thống trị; của cải của một số ít người vẫn tiếp tục tăng “theo cấp số nhân”, trong khi khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn; và “những ý thức hệ bảo vệ sự tự trị tuyệt đối của thị trường cùng các hoạt động đầu cơ tài chính” vẫn còn phổ biến (92).

    Văn hóa loại bỏ, tự do thị trường và mục vụ dành cho giới thượng lưu

    Tất cả những điều này, theo Đức Giáo Hoàng Lêô, cho thấy sự tồn tại dai dẳng của một “nền văn hóa loại bỏ”, đôi khi “được che đậy khéo léo”, vốn “thản nhiên chấp nhận việc hàng triệu người chết đói hoặc sống trong những điều kiện không xứng đáng với phẩm giá con người” (96, 11).

    Đức Thánh Cha lên án những “dữ liệu giả khoa học” được sử dụng để củng cố luận điểm cho rằng “nền kinh tế thị trường tự do sẽ tự động giải quyết được vấn đề nghèo đói”, cũng như tư tưởng cho rằng “chúng ta nên chọn công việc mục vụ cho giới gọi là thượng lưu, bởi lẽ, thay vì lãng phí thời gian với người nghèo, hãy chọn chăm sóc cho người giàu” để nhờ họ giúp tìm ra giải pháp thực tế cho vấn đề nghèo đói (114).

    “Thật vậy, ‘người ta thường nhận thấy rằng, trên thực tế, các quyền con người không hề bình đẳng cho mọi người’” (94).

    Một sự thay đổi trong não trạng

    Đức Giáo Hoàng Lêô kêu gọi một “sự thay đổi trong não trạng” có thể giải thoát chúng ta khỏi “ảo tưởng về hạnh phúc đến từ đời sống tiện nghi, vốn khiến nhiều người hướng đến một cái nhìn về cuộc sống chỉ tập trung vào việc tích lũy của cải và thành công xã hội bằng mọi giá, thậm chí với thiệt hại cho người khác, và lợi dụng những lý tưởng xã hội bất công cùng các hệ thống chính trị - kinh tế thiên vị kẻ mạnh” (11).

    “Phẩm giá của mỗi con người phải được tôn trọng ngay hôm nay, chứ không phải ngày mai” (92).

    Nơi mỗi người di dân bị khước từ, chính Đức Kitô đang gõ cửa

    Đức Giáo Hoàng Lêô cũng dành nhiều phần để nói về chủ đề di dân, minh họa lời ngài bằng hình ảnh của Alan Kurdi, cậu bé người Syria ba tuổi, người đã trở thành biểu tượng của cuộc khủng hoảng di dân châu Âu năm 2015 với bức ảnh thi thể em nằm trên bãi biển. “Thật không may, ngoài vài tiếng kêu cứu nhất thời, những biến cố tương tự đang ngày càng bị xem nhẹ và chỉ được coi là tin tức ngoài lề,” Đức Giáo Hoàng nhận định (11).

    Đồng thời, ngài nhắc lại công trình phục vụ lâu đời của Giáo Hội dành cho những người buộc phải rời bỏ quê hương, thể hiện qua các trung tâm đón tiếp người tị nạn, các sứ vụ tại biên giới, cùng nỗ lực của Caritas Quốc tế và nhiều tổ chức khác (75).

    “Giáo Hội, như người mẹ hiền, đồng hành với những ai đang bước đi. Nơi thế giới thấy hiểm họa, Giáo Hội thấy những người con; nơi người ta dựng lên bức tường, Giáo Hội xây nên nhịp cầu. Giáo Hội biết rằng lời rao giảng Tin Mừng chỉ đáng tin khi được thể hiện bằng những cử chỉ gần gũi và đón tiếp. Và Giáo Hội biết rằng: nơi mỗi người di dân bị khước từ, là chính Đức Kitô đang gõ cửa cộng đoàn” (75).

    Về vấn đề di dân, Đức Giáo Hoàng nhắc lại bốn động từ nổi tiếng của Đức Phanxicô: “đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập”. Ngài cũng trích lại lời người tiền nhiệm mô tả người nghèo “không chỉ là đối tượng của lòng thương cảm, mà còn là những thầy dạy Tin Mừng” (79).

    “Phục vụ người nghèo không phải là một hành động được thực hiện ‘từ trên xuống’, mà là một cuộc gặp gỡ giữa những người bình đẳng, nơi Đức Kitô được tỏ hiện và được tôn thờ… Vì thế, khi Giáo Hội cúi mình để chăm sóc người nghèo, chính lúc đó Giáo Hội đang ở tư thế cao quý nhất” (79).

    Phụ nữ - nạn nhân của bạo lực và loại trừ

    Đức Thánh Cha cũng nhìn đến thực trạng hiện nay, khi nhớ đến vô số người chết mỗi ngày “vì thiếu lương thực và nước uống” (12).

    Tương tự, ngài nhấn mạnh rằng chúng ta không được quên những người phụ nữ - những người “nghèo gấp đôi… phải chịu cảnh bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực, vì họ thường ít có khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình,” ngài nói, trích lời Đức Phanxicô (12).

    Người nghèo không hiện diện một cách ngẫu nhiên

    Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đưa ra một suy tư sâu sắc về nguyên nhân của nghèo đói:

    “Người nghèo không hiện diện cách ngẫu nhiên hay do số phận mù quáng và tàn nhẫn. Và với hầu hết những người ấy, nghèo đói không phải là một sự lựa chọn,” ngài nói. “Vậy mà vẫn có những người dám khẳng định như thế, thật là mù quáng và tàn nhẫn”” (14).

    Dù thừa nhận rằng “trong số người nghèo cũng có những người không muốn làm việc, có lẽ vì tổ tiên của họ đã làm việc suốt đời mà vẫn chết trong cảnh nghèo”, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng có “rất nhiều người khác - cả nam lẫn nữ - vẫn lao động từ tờ mờ sáng đến tối mịt, có khi chỉ đi nhặt phế liệu hay làm những việc tương tự, dù họ biết công sức ấy chỉ giúp họ sống lay lắt qua ngày, chứ không thể thực sự cải thiện cuộc sống” (14).

    Trong một điểm trọng tâm của “Dilexi Te”, Đức Giáo Hoàng Lêô nhấn mạnh rằng: không thể nói rằng “phần lớn người nghèo bị như thế là vì họ không ‘xứng đáng’ được nhiều hơn, như lập luận sai lạc của chủ nghĩa trọng dụng người tài, cho rằng chỉ những ai thành đạt mới là ‘xứng đáng’” (14).

    Các ý thức hệ và khuynh hướng chính trị

    Đức Giáo Hoàng Lêô nhận xét rằng đôi khi chính các Kitô hữu cũng để mình bị chi phối bởi những thái độ được hình thành từ “các ý thức hệ thế tục hoặc những quan điểm chính trị và kinh tế dẫn đến những tổng quát hóa thô thiển và kết luận sai lầm” (15).

    “Có người nói: ‘Nhiệm vụ của chúng ta là cầu nguyện và giảng dạy giáo lý chân chính’. Khi tách khía cạnh tôn giáo này khỏi việc phát triển toàn diện, họ còn cho rằng đó là trách nhiệm của chính quyền phải chăm lo cho người nghèo, hoặc rằng tốt hơn là đừng giúp họ thoát nghèo, mà chỉ cần dạy họ làm việc là đủ” (114).

    Việc bố thí thường bị xem nhẹ

    Một biểu hiện của não trạng này là việc thực thi bác ái đôi khi bị gạt bỏ hoặc chế giễu, “như thể đó chỉ là nỗi ám ảnh của một số ít người chứ không phải là con tim cháy bỏng của sứ mạng Giáo Hội” (15). Đức Thánh Cha dành nhiều suy tư cho việc bố thí, vốn “hiếm khi được thực hành” trong thời đại ngày nay, và “thậm chí đôi khi còn bị khinh thường” (115).

    “Chúng ta, những Kitô hữu, không được bỏ việc bố thí. Việc này có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, và chắc chắn là hiệu quả hơn, nhưng vẫn phải được tiếp tục. Luôn luôn tốt hơn nếu ít nhất ta làm được điều gì đó, thay vì không làm gì cả. Dù dưới hình thức nào, việc bố thí cũng sẽ chạm đến và làm mềm những trái tim đã chai cứng của chúng ta. Nó không giải quyết được vấn đề nghèo đói toàn cầu, nhưng vẫn phải được thực hiện với trí tuệ, sự chuyên cần và tinh thần trách nhiệm xã hội. Phần chúng ta, cần bố thí như một cách để đến gần và chạm vào thân thể đau khổ của người nghèo” (119).

    Sự thờ ơ nơi các Kitô hữu

    Cùng trong chiều hướng đó, Đức Giáo Hoàng thừa nhận rằng “đôi khi, có những phong trào hoặc nhóm Kitô hữu xuất hiện nhưng lại ít hoặc không quan tâm đến lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là việc bảo vệ và thăng tiến những người dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất” (112).

    Trích lại lời Đức Phanxicô, Đức Giáo Hoàng Lêô cảnh báo rằng nếu “bất kỳ cộng đoàn Giáo Hội nào” không cộng tác “trong việc giúp người nghèo sống xứng đáng và mở lòng đến với mọi người”, cộng đoàn đó “sẽ có nguy cơ tan rã, cho dù có nói nhiều về các vấn đề xã hội hay chỉ trích chính quyền đến đâu. Họ sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng thế tục hóa tinh thần, được che đậy bằng các thực hành tôn giáo, những cuộc họp vô ích và lời nói trống rỗng” (113).

    “Chúng ta phải thẳng thắn khẳng định rằng có một mối dây gắn bó không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo” (36).

    Chứng tá của các thánh, chân phước và các dòng tu

    Trái ngược với thái độ thờ ơ này là thế giới của các thánh, các chân phước và các nhà truyền giáo, những người qua nhiều thế kỷ đã hiện thân cho hình ảnh “một Giáo Hội nghèo vì người nghèo” (110), từ Thánh Phanxicô Assisi với cử chỉ ôm lấy người phong cùi (7), đến Mẹ Têrêsa, “biểu tượng toàn cầu của đức bác ái”, người đã hiến trọn đời cho những người khốn cùng nhất ở Ấn Độ và đồng hành cùng người hấp hối “với sự dịu dàng của lời cầu nguyện” (77).

    Đức Giáo Hoàng cũng nhắc lại chứng tá của các Thánh Laurensô, Giúttinô, Ambrôxiô và Gioan Kim Khẩu; cùng với Thánh Âu Tinh - người đã nói: “Ai nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không cảm thương người nghèo là nói dối,” trích từ thư thứ nhất của Thánh Gioan 4:20 (45).

    Đức Giáo Hoàng nhắc đến công việc của các tu sĩ Camillô trong việc chăm sóc bệnh nhân (50), và của các dòng nữ phục vụ tại bệnh viện và nhà dưỡng lão (51). Ngài cũng ghi nhận việc các đan viện Biển Đức đón tiếp các góa phụ, trẻ em bị bỏ rơi, khách hành hương và người ăn xin (55); đồng thời nhắc đến các dòng Phanxicô, Đa Minh, Cát Minh và Augustinô, những người đã khởi xướng “một cuộc cách mạng Tin Mừng” qua “lối sống đơn sơ và nghèo khó” (63); cũng như các dòng Ba Ngôi và Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi, những người đã chiến đấu cho tự do của tù nhân, thể hiện tình yêu của “Thiên Chúa, Đấng giải thoát không chỉ khỏi ách nô lệ tinh thần mà còn khỏi áp bức cụ thể” (60).

    “Truyền thống của các dòng tu này không hề chấm dứt. Trái lại, nó đã khơi dậy những hình thức hành động mới đối diện với các hình thức nô lệ hiện đại: nạn buôn người, lao động cưỡng bức, bóc lột tình dục và nhiều hình thức lệ thuộc khác. Đức bác ái Kitô giáo mang tính giải phóng khi được nhập thể trong hành động cụ thể” (61).

    Quyền được giáo dục

    Noi gương Thánh Giuse Calasanz, người đã sáng lập trường công lập miễn phí đầu tiên ở châu Âu (69), Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục người nghèo, điều mà “không phải là một ân huệ, mà là một nghĩa vụ” (72).

    “Trẻ em có quyền được hiểu biết, vì đó là điều kiện nền tảng để công nhận phẩm giá con người” (72).

    Nỗ lực của các phong trào quần chúng

    Trong Tông huấn, Đức Giáo Hoàng cũng nhắc đến cuộc đấu tranh của các phong trào quần chúng chống lại “những hệ quả tàn phá của đế chế tiền bạc” (81), mà các nhà lãnh đạo của các phong trào này thường “bị nghi ngờ hoặc thậm chí bị bách hại” (80). Ngài viết rằng: các phong trào này “mời gọi chúng ta vượt qua ‘não trạng cho rằng: các chính sách xã hội chỉ là chính sách dành cho người nghèo, nhưng không bao giờ cùng với người nghèo và không bao giờ là của người nghèo, càng không phải là dự án có thể đưa mọi người lại gần nhau hơn’(81).

    Bổn phận cất tiếng nói

    Trong những trang cuối của văn kiện, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhắc nhở mọi thành phần Dân Chúa về bổn phận “cất lên tiếng nói của mình, dù theo những cách khác nhau, để chỉ ra và tố cáo các vấn đề cơ cấu, ngay cả khi phải chấp nhận bị xem là ngây thơ hay khờ dại” (97).

    “Các cơ cấu bất công cần được nhận diện và loại bỏ bằng sức mạnh của điều thiện, bằng việc thay đổi não trạng, đồng thời với sự trợ giúp của khoa học và công nghệ để phát triển những chính sách hiệu quả cho việc đổi mới xã hội” (97).

    Người nghèo ở trung tâm của Giáo Hội

    “Rõ ràng,” Đức Giáo Hoàng Lêô nói, “tất cả chúng ta phải để cho mình được ‘loan báo Tin Mừng’ bởi người nghèo” (102).

    Ngài khẳng định rằng “không một Kitô hữu nào có thể xem người nghèo đơn thuần là một vấn đề xã hội”; trái lại, “họ là một phần của ‘gia đình chúng ta’. Họ là ‘một người trong chúng ta’.” Vì thế, ngài nói, “mối tương quan của chúng ta với người nghèo” không thể “bị giản lược thành một hoạt động hay chức năng khác của Giáo hội”. (104).

    “Người nghèo ở trung tâm của Giáo Hội” (111).

     

  • Hình ảnh
  • Bài viết liên quan